09DKB
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

09DKB

Kinh doanh Bất động sản khóa 2009
 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

Welcome to you!
»»--09DKB.forumvi.net--««
Chào mừng bạn đến với diễn đàn của lớp 09DKB
Khóa 6 Trường Đại Học Tài Chính - Marketing !!!
Chúc bạn có những phút giây vui vẻ!

» Nếu đã có tài khoản, đăng nhập tại đây:«

» Chưa có tài khoản? Nhấn vào đây để đăng ký «

BÀI 16 - Các công cụ phái sinhXem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
BG
BG
Thành viên cấp 6
Thành viên cấp 6
Nam
Tổng số bài gửi317
EQ1
Birthday05/04/1990
Join date : 16/01/2010
Reputation: 517

BÀI 16 - Các công cụ phái sinh Vide
Bài gửiTiêu đề: BÀI 16 - Các công cụ phái sinh,-Thu Feb 18, 2010 10:00 am






I. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.


II. Các loại công cụ phái sinh:

1. Quyền lựa chọn (Option)

a. Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một
khối lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một
thời gian nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số
cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp
đồng tương lai.

b. Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
- Thời hạn của quyền.
- Mức giá thực hiện theo quyền.
c. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
- Giá quyền lựa chọn.

Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của
chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the
money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền.
Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà
vốn ( at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of
money).

Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực
hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường
của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn
giá thị trường của hàng hoá cơ sở.

Giá trị mà người nắm giữ
quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là giá
trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá
trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng
giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch
giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang
được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian. Nói cách
khác, khi đó:

Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện).
Ví dụ 1: Giá của một quyền chọn mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường
của XYZ là 42.000 đồng. Người giữ quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay
tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức là mua 100 cổ phần ( mức giá
được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000 đồng, cũng theo mức giá
thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó bán ngay với giá
thị trường, thu về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là 200.000 đ.
Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá trị nội tại = 400.000 đ - 200.000 đ = 200.000 đ

Người mua vẫn sẵn sàng trả phần phụ trội cho các quyền lựa chọn vì họ nhận được nhiều lợi ích từ một quyền lựa chọn.

d. Ứng dụng của quyền lựa chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Ví dụ 2: Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000 VND/cổ
phần, và bạn dự đoán sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng mạnh,
lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa chọn có liên quan đến giao
dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn mua cổ
phiếu XYZ với giá 40.000 VND/cổ phần.

Trong vòng 6 tháng giá
cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán
giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán
chúng ra thị trường với giá 50.000 đồng.

Như vậy bạn đã tạo ra
một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đã thu được lợi nhuận 60.000
đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong khoảng
thời gian là 6 tháng.

Quyền lựa chọn được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận

Ví dụ 3: Với XYZ đang có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu
100 cổ phần XYZ bán một quyền chọn mua XYZ 44.000 với giá quyền là
400.000 đồng. Nếu giá thị trường của XYZ giảm xuống 40.000 đồng, người
bán sẽ được bảo vệ trước khoản thua lỗ nhờ có 40.000 đồng nhận được từ
việc bán quyền chọn. Nếu XYZ tiếp tục giảm giá thì đương nhiên người
bán sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000 đồng từ việc bán quyền lựa
chọn tạo ra một sự bảo vệ cụ bộ đối với tình trạng sụt giá. Nếu trong 6
tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được thực hiện. Khoản
thu phụ trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng đầu tư.


2. Quyền mua trước (right)


Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi
chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng
cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông mua
cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời
gian xác định. Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi
cổ phiếu đang lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một
cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới.

Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ
phiếu. Giá của quyền tính bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành
của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới theo quyền, chia cho
số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.

Ví dụ: cổ
phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có
giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần
mới thì giá của quyền được xác định theo công thức
Vr = P0 - Pn/r

Trong đó: Vr là giá trị của một quyền, P0 là giá thị trường của cổ
phiếu đang lưu hành, Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền
cần có để mua một cổ phiếu mới. Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000
– 800.000)/10 = 20.000 đồng.

Nếu không muốn thực hiện quyền,
cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời gian quyền
chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào
bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.


3. Chứng quyền (warrants)

Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ
phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này
được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty
muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ
phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những
điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể
xảy ra của cổ phiếu thường.

Khác với quyền mua trước, chứng
quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát
hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi
chứng quyền được thực hiện, nó tạo thành dòng tiền vào cho công ty và
tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường.

Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.

Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ
phiếu được mua theo mỗi chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho
mỗi cổ phiếu; tại thời điểm chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ
cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố
định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời hạn của quyền, đa số trường
hợp là 5 đến 10 năm.


4.Hợp đồng kỳ hạn

Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người
bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác
định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được
ấn định vào ngày hôm nay.

Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào; từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các chứng khoán.

Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả
do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính
các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao
nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá
đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị
thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn
(bên mua) theo giá thị trường.

Như vậy bằng việc tham gia vào
một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng
như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia
vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong
việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao
ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực
hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ
quan nên rất có thể không chính xác.


5. Hợp đồng tương lai

Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được
những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách
thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh.

Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:

1. Niêm yết trên sở giao dịch. Một giao dịch hợp đồng tương lai nói
chung được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được
hình thành hợp lý hơn, do các bên
mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.

2. Xoá bỏ rủi ro tín dụng. Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được
niêm yết trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ
biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục
vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho
công ty thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh toán
bù trừ. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn
không ảnh hưởng gì đến bên kia.

3.Tiêu chuẩn hoá. Các hợp đồng
kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất kỳ, khối lượng, chất
lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai bên
bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên sở giao dịch
đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể
đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn
định trước.

4. Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị
trường (Marking to market). Trong các hợp đồng kỳ hạn, các khoản lỗ,
lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất
kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của
hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp
đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên
được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không bên nào biết về
đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho
công ty thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người
thắng.


BÀI 16 - Các công cụ phái sinh

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
Quyền của bạnBạn không có quyền trả lời bài viết
09DKB :: FMG :: FMG :: Thông báo của FMG-
Design by Krish
Sử dụng mã nguồn Phpbb phiên bản 2.0
Copyright ©2008 - 2010

Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất